Tóm tắt
Giới thiệu: Trung tâm Nội tiết sinh sản và Vô sinh thuộc Bệnh viện Đại học Y Dược Huế được thành lập từ năm 2003 nhằm đáp ứng nhu cầu khám và điều trị vô sinh cho người dân khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Nhân sự tại trung tâm đã được quan tâm đào tạo từ nhiều năm trước ở trong và ngoài nước. Kể từ năm 2010, Ban Lãnh đạo Bệnh viện đã có quyết định phát triển chuyên khoa vô sinh theo hướng chuyên sâu, triển khai kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản liên quan nhằm nâng cao chất lượng khám và điều trị vô sinh tại bệnh viện. Sau 2 năm chuẩn bị, được thẩm định và thông qua Hội đồng Chuyên môn của Bệnh viện, Trung tâm đã thông báo nhận bệnh vào điều trị vô sinh bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm kể từ tháng 9/2013, chọc hút trứng chuyển phôi từ tháng 12/2013, chính thức là Trung tâm hỗ trợ sinh sản thứ 18 của Việt Nam. Quy trình kỹ thuật: được xây dựng từ năm 2012 bao gồm các vấn đề liên quan đến hành chính, quản lý cơ sở dữ liệu, mua sắm trang thiết bị máy móc, dụng cụ tiêu hao, vận hành thử, kiểm tra và kiểm soát toàn bộ quy trình, thông báo triển khai và nhận bệnh vào điều trị. khám tổng quát bệnh nhân, đánh giá chức năng sinh sản, chẩn đoán và tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm cho tất cả các trường hợp đúng chỉ định. Kích thích buồng trứng bằng các phác đồ khác nhau tùy từng trường hợp, gây trưởng thành nang noãn bằng hCG hoặc GnRHa, chọc hút trứng bằng máy qua siêu âm đường âm đạo, tinh trùng từ xuất tinh hoặc trữ lạnh hoặc phẫu thuật, nuôi cấy phôi 2-3 ngày, chuyển phôi vào buồng tử cung bằng catheter nòng đôi với siêu âm đường bụng hoặc đường âm đạo, phôi còn lại được trữ lạnh bằng phương pháp thủy tinh hóa. Kết quả điều trị: Từ 12/2013 đến tháng 4/2014, tổng số có 39 cặp vợ chồng với 41 chu kỳ chọc hút trứng. số người đã từng điều trị TTTON trước đây ở nơi khác thất bại (20,5%), tuổi đời người vợ khá cao (34,6±4,1), thời gian mong con trung bình khá dài 5,2±2,9 năm, rải rác từ nhiều tỉnh thành khác nhau, với các nguyên nhân vô sinh về cả vợ và chồng. Chỉ định kích thích buồng trứng theo các phác đồ khác nhau như phác đồ siêu dài, phác đồ dài, phác đồ ngắn và phác đồ GnRHantagonist (chiếm 83%). Có thể cấy thụ tinh cổ điển hoặc ICSI. Liều FSH trung bình 2143 IU và số nang từ 14mm trung bình 10,5±3,7, gây trưởng thành noãn chủ yếu với hCG (90,2%), 9,8% còn lại đã được dùng gnrha do nguy cơ quá kích buồng trứng. Số noãn MII thu được trung bình 9,46±5,7 và trung bình số phôi tốt vào ngày 2 hoặc 3 là 5,7±2,9 tính trên mỗi bệnh nhân, số phôi chuyển trung bình 2,61±0,75. Kết quả tỷ lệ có thai sinh hóa tính trên bệnh nhân điều trị là 35,9% và tỷ lệ thai lâm sàng là 28,2%. Đặc biệt chỉ có một trường hợp đa thai (song thai) chiếm tỷ lệ 7,1% và không có trường hợp nào bị hội chứng quá kích buồng trứng nặng. Có thai từ tinh trùng trữ lạnh 75%, từ tinh trùng phẫu thuật 50% và từ cho - nhận noãn 100%, tỷ lệ có thai sau chuyển phôi trữ là 66,7%. Kết luận: Trung tâm Nội tiết Sinh sản và Vô sinh tại Bệnh viện Đại học Y Dược sau hơn 10 năm hoạt động đã tự triển khai thành công, an toàn kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm với nguồn nhân lực tại chỗ, được đào tạo từ các trung tâm lớn trong và ngoài nước, thực hiện được hầu hết các kỹ thuật quan trọng trong hỗ trợ sinh sản, điều trị hầu hết các nguyên nhân vô sinh với tỷ lệ thành công tương đương các trung tâm khác và được định hướng để phát triển theo hướng chuyên sâu trong tương lai.Tạp chí sẽ lưu giữ bản quyền phân phối, giao dịch đối với tất cả các bản thảo, bản toàn văn của bài báo đăng trên hệ thống. Mọi hình thức chia sẽ, trao đổi, giao dịch các sản phẩm thuộc hệ thống xuất bản vjog.vn mà không được sự đồng ý của chúng tôi sẽ là vi phạm bản quyền
Download
Dữ liệu downlad không hiện hữu.