Tạp chí Phụ sản https://vjog.vn/journal <p>Tạp chí Phụ Sản (ISSN 1859–3844, DOI: 10.46755/vjog)&nbsp; sẽ công bố các công trình nghiên cứu khoa học, bài viết tổng quan cũng như các báo cáo trường hợp lâm sàng đặc biệt, liên quan đến các lĩnh vực sản phụ khoa, sơ sinh và nội tiết sinh sản, vô sinh được xuất bản định kỳ mỗi quý (4 số mỗi năm) và một số số đặc biệt.&nbsp;&nbsp;Bài viết gởi về tòa soạn cần tuân thủ quy định về hình thức của tạp chí và theo quy trình <a href="https://vjog.vn/journal/quy-trinh">tại đây</a>.</p> <p>Mỗi bài báo khoa học được chấp nhận đăng trên tạp chí phụ sản được Hội đồng Chức danh giáo sư nhà nước đánh giá <strong>0,75</strong> điểm/công trình về mặt đóng góp khoa học.&nbsp;</p> <p>Mỗi bài viết sẽ được nhận xét bởi 2 phản biện độc lập do Ban biên tập giới thiệu, là những chuyên gia về các lĩnh vực liên quan, để nhận xét tính mới, ý nghĩa khoa học và tính thực tiễn của mỗi bài viết và chấp nhận đăng. Tác giả bài viết sẽ chịu trách nhiệm về nội dung bài của mình và có trách nhiệm phản hồi với mọi ý kiến của độc giả sau khi công bố.</p> vi-VN <p>Tạp chí sẽ lưu giữ bản quyền phân phối, giao dịch đối với tất cả các bản thảo, bản toàn văn của bài báo đăng trên hệ thống. Mọi hình thức chia sẽ, trao đổi, giao dịch các sản phẩm thuộc hệ thống xuất bản vjog.vn mà không được sự đồng ý của chúng tôi sẽ là vi phạm bản quyền</p> tapchiphusan.vn@gmail.com (Ban biên tập) tc.phusan@gmail.com (Hỗ trợ hệ thống) Fri, 25 Apr 2025 10:25:57 +0000 OJS 3.1.2.4 http://blogs.law.harvard.edu/tech/rss 60 Trữ lạnh noãn: chiến lược mới trong hỗ trợ sinh sản ? https://vjog.vn/journal/article/view/1788 <p>Kỹ thuật đông noãn đã có những bước tiến lớn trong những năm qua và nổi lên như một chiến lược bảo tồn khả năng sinh sản cho phụ nữ, cho phép trì hoãn việc sinh con mà không bị ảnh hưởng nhiều bởi tuổi tác. Trữ lạnh noãn ban đầu chủ yếu dành cho bệnh nhân ung thư cần bảo tồn khả năng sinh sản trước khi điều trị. Ngày nay, nhiều phụ nữ khỏe mạnh lựa chọn trữ lạnh noãn vì các lý do xã hội như trì hoãn sinh con để theo đuổi học vấn, sự nghiệp, hoặc độc lập tài chính, cũng như những bệnh nhân có dự trữ buồng trứng giảm, tuổi cao có chỉ định sàng lọc tiền làm tổ nhưng tiền sử tạo ra rất ít phôi. Sự phát triển của kỹ thuật đông lạnh noãn, đặc biệt là với phương pháp thủy tinh hóa, đã giúp tỷ lệ sống của noãn sau rã đông có thể lên tới từ 90 đến 97%, với tỷ lệ thụ tinh, tạo phôi và thai sinh sống tương đương với noãn tươi. Các bằng chứng hiện tại cho thấy không có sự gia tăng về tỷ lệ dị bội của phôi từ noãn đông lạnh so với noãn tươi. Đặc biệt, trẻ sinh ra từ noãn đông lạnh có cân nặng, dị tật bẩm sinh, phát triển tâm thần và sinh lý tương đương với trẻ từ noãn tươi. Tuy nhiên, việc trữ lạnh noãn cần thận trọng khi xem xét chiến lược gom noãn cho bệnh nhân tuổi cao, có dự trữ buồng trứng giảm. Các bác sĩ lâm sàng cần tư vấn rõ cho bệnh nhân về hiệu quả và hạn chế của phương pháp này, cũng như so sánh với các lựa chọn điều trị khác.</p> <p>Trữ lạnh noãn là một chiến lược mới đầy hứa hẹn trong hỗ trợ sinh sản, đã được ASRM khuyến cáo và hướng dẫn cụ thể. Kỹ thuật này mang đến cho phụ nữ sự linh hoạt trong việc lập kế hoạch cho sự nghiệp, gia đình, sinh con, cũng như ở nhóm bệnh nhân tuổi cao, có dự trữ buồng trứng giảm. Cần cân nhắc kỹ lưỡng về rủi ro, lợi ích, các khía cạnh đạo đức và cá nhân hóa là rất quan trọng để giúp phụ nữ đưa ra quyết định. Cần thêm nghiên cứu để cải thiện kỹ thuật và cung cấp thông tin đầy đủ cho phụ nữ về lợi ích và rủi ro của phương pháp này.</p> Đặng Tuấn Anh Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1788 Fri, 25 Apr 2025 10:17:36 +0000 Nghiên cứu kết cục thai kỳ ở những thai phụ mang thai con so tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế https://vjog.vn/journal/article/view/1794 <p><strong>Mục tiêu: </strong>Khảo sát đặc điểm, kết cục thai kỳ và một số yếu tố liên quan đến kết cục thai kỳ ở thai phụ mang thai con so.</p> <p><strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: </strong>Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 132 thai phụ mang thai con so điều trị tại Khoa Phụ Sản, Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế từ tháng 7/2024 đến tháng 9/2024.</p> <p><strong>Kết quả:</strong> Độ tuổi trung bình của thai phụ là 25,7 ± 5,4 tuổi, mẹ lớn tuổi (≥35 tuổi) chiếm 7,6%. Tỷ lệ thai kỳ nhờ hỗ trợ sinh sản là 10,6%. Phần lớn thai phụ vào viện ở giai đoạn I pha tiềm tàng (67,4%), thời gian trung bình pha tích cực là 3,2 ± 1,4 giờ.</p> <p>Tỷ lệ mổ lấy thai là 44,7% chủ yếu là do thai suy (21,2%); thai kỳ hỗ trợ sinh sản, con hiếm, tiền sử sản khoa xấu (18,2%) và chuyển dạ ngưng tiến triển (16,2%), tỷ lệ mổ lấy thai trong chuyển dạ là 39,7%. Tuổi thai trung bình là 39,0 ± 1,6 tuần, sinh non chiếm 6,8%, tỷ lệ trẻ sơ sinh nhẹ cân là 7,6%, 4,5% có điểm APGAR 1 phút ≤ 7, tỷ lệ trẻ sơ sinh phải chăm sóc tích cực là 4,5%, sơ sinh vàng da sớm là 3,8%. Biến chứng chủ yếu ở mẹ là bí tiểu sau sinh chiếm 3,4% các trường hợp mổ lấy thai và 5,5% các trường hợp sinh đường âm đạo.</p> <p>Các trường hợp mẹ lớn tuổi, mẹ thừa cân-béo phì trước mang thai, thai kỳ sau hỗ trợ sinh sản, tiền sử sẩy thai và trọng lượng thai nhi ước lượng qua siêu âm ≥3500 gram có tỷ lệ mổ lấy thai cao hơn. Có mối liên quan thuận mạnh giữa mức tăng cân mẹ trong cả thai kỳ với trọng lượng trẻ sơ sinh (p=0,001, r=1,0).&nbsp;</p> <p><strong>Kết luận: </strong>Tỷ lệ mổ lấy thai ở thai phụ mang thai con so còn cao. Các đặc điểm cần quan tâm để cải thiện kết cục thai kỳ bao gồm diễn biến cuộc chuyển dạ, tuổi mẹ, tiền sử sản khoa, thai kỳ hỗ trợ sinh sản, thể trạng mẹ trước mang thai, mức tăng cân trong thai kỳ và ước lượng trọng lượng thai nhi.</p> Đàm Lê Châu, Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Hùng Cao Viên, Trương Quang Đạt, Nguyễn Thị Thảo, Phạm Thị Thạch Thảo, Nguyễn Thị Kim Anh Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1794 Thu, 24 Apr 2025 02:23:25 +0000 Nghiên cứu tỷ lệ bất thường thai nhi trên siêu âm và thái độ xử trí ở các thai phụ trong sàng lọc quý I tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế https://vjog.vn/journal/article/view/1792 <p><strong>Mục tiêu: </strong>Xác định tỷ lệ dị tật bất thường thai nhi trên siêu âm từ 11 đến 13 tuần 6 ngày, thái độ xử trí ở các thai phụ khi có bất thường thai nhi.</p> <p><strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: </strong>Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 1087 thai phụ có tuổi thai từ 11 tuần đến 13 tuần 6 ngày thực hiện sàng lọc, chẩn đoán trước sinh tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế trong thời gian từ tháng 01/2023 đến tháng 09/2024.</p> <p><strong>Kết quả:</strong> Tỷ lệ bất thường thai nhi trên siêu âm sàng lọc quý I là 9,8% (107/1087 trường hợp). Các bất thường có tần suất phát hiện nhiều nhất là da gáy dày với 64,5% (69/107 trường hợp), nang bạch huyết vùng cổ 43%, bất/ thiểu sản xương mũi 18,7%. Có 15% (16/107 trường hợp) thai phụ được chỉ định chấm dứt thai kỳ khi phát hiện bất thường thai nhi qua siêu âm. Tỷ lệ thai phụ được chỉ định chọc ối là 76,7% (83/107 trường hợp). Trong số 45 trường hợp thực hiện xét nghiệm NIPT, chỉ 35,6% (16/45 trường hợp) tuân thủ đúng theo chỉ định. Bất thường di truyền có tỷ lệ phát hiện cao nhất là bất thường số lượng NST (Trisomy 13, 18, 21, giới tính, thể khảm) 70,2%, tiếp theo là các bất thường về cấu trúc và bất thường về gen 14,9%. Kết quả sau khi thực hiện các xét nghiệm sàng lọc và chẩn đoán, tỷ lệ thai phụ quyết định chấm dứt thai kỳ ở thai có dị tật nặng là 48,6%.</p> <p><strong>Kết luận: </strong>Siêu âm sàng lọc quý I thời điểm thai 11 - 13 tuần 6 ngày rất có giá trị trong việc phát hiện các bất thường sớm ở thai nhi, ngoài các bất thường nghiêm trọng về mặt hình thái có chỉ định chấm dứt thai kỳ, siêu âm còn phát hiện các dị tật có liên quan đến bất thường về mặt di truyền, từ đó đưa ra thái độ xử trí phù hợp tiếp theo. </p> Phạm Thị Ngọc Trâm, Trần Thị Ngọc Bích, Phạm Thị Ngọc Trâm, Huỳnh Hà Truyền, Trương Hoàng Bảo Trân, Trần Thị Ngọc Thương, Võ Minh Thắng Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1792 Thu, 24 Apr 2025 02:30:18 +0000 Nghiên cứu giá trị của xét nghiệm NIPT dương tính và kết quả chọc ối tại Trung tâm Sản Phụ khoa, Bệnh viện Trung ương Huế https://vjog.vn/journal/article/view/1787 <p><strong>Mục tiêu nghiên cứu: </strong>(1) Khảo sát các đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của các trường hợp xét nghiệm sàng lọc trước sinh không xâm lấn dương tính. (2) Nghiên cứu giá trị của xét nghiệm NIPT dương tính và kết quả chọc ối.</p> <p><strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: </strong>Nghiên cứu mô tả cắt ngang với 83 thai phụ mang đơn thai từ 10 – 22 tuần có kết quả NIPT dương tính và được chỉ định chọc ối để chẩn đoán xác định tại Trung tâm sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và Trung tâm Sản Phụ khoa, Bệnh viện Trung Ương Huế từ tháng 4 năm 2022 đến tháng 06 năm 2024. Chỉ định chọc ối khi thai phụ mang thai ≥ 16 tuần thai, nuôi cấy tế bào, lập karyotype phân tích bộ NST thai được thực hiện theo chuẩn băng G như là một tiêu chuẩn vàng để đối chứng với phương pháp giải trình tự gen thế hệ mới.</p> <p><strong>Kết quả: </strong>Các bất thường nhiễm sắc thể thường gặp nhất theo kết quả NIPT dương tính là Trisomy 21, Trisomy 13 và Trisomy 18 với tỷ lệ&nbsp; 44,5%, 19,3%, 12,1%. Giá trị dư báo dương tính (PPV) của NIPT đối với Trisomy 21, 18 và 13 lần lượt là 97,3%, 100% và 62,5%. Đối với Trisomy 21, giá trị Z-score ở điểm 1,32 thì PPV của NIPT đạt 97,7%, và từ 2,1 trở đi thì PPV đạt 100%. Đối với Trisomy 18 thì PPV của NIPT đạt 100%. PPV của NIPT đối với Trisomy 13 dao động từ 62,5 - 85,7% khi Z-score dao động từ 2,02 - 6,08 và đạt 100% khi Z-score ≥ 8,57.</p> <p><strong>Kết luận: </strong>Xét nghiệm NIPT là phương pháp sàng lọc không xâm lấn có giá trị cao trong phát hiện lệch bội nhiễm sắc thể.</p> Trần Minh Thắng, Lê Thị Loan Trinh, Nguyễn Thị Tuyết Trinh, Đặng Văn Tân, Trần Thị Thúy Trang, Nguyễn Trần Thảo Nguyên, Võ Văn Đức Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1787 Thu, 24 Apr 2025 02:42:13 +0000 Nghiên cứu mối liên quan giữa siêu âm doppler động mạch não giữa, động mạch rốn và kết cục thai kỳ ở thai quá ngày sinh dự đoán https://vjog.vn/journal/article/view/1785 <p><strong>Mục tiêu: </strong>Nghiên cứu mối liên quan giữa Doppler động mạch não giữa, động mạch rốn và kết cục thai kỳ ở thai quá ngày sinh dự đoán.</p> <p><strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: </strong>Thiết kế nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang trên 115 sản phụ mang đơn thai, thai sống có tuổi thai từ 40 tuần 1 ngày đến 41 tuần 6 ngày có khảo sát siêu âm Doppler động mạch rốn và động mạch não giữa, chỉ số sinh trắc học thai nhi trước khi kết thúc thai kỳ tại Khoa Phụ Sản, Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế từ tháng 06/2023 - 06/2024. Số liệu được nhập, xử lý bằng phần mềm SPSS 26.0, MedCalc.</p> <p><strong>Kết quả: </strong>Kết cục chu sinh bất lợi chiếm 21,7%. Tỷ lệ mổ lấy thai ở nhóm kết cục chu sinh bất lợi chiếm 68% cao hơn so với nhóm kết cục chu sinh bình thường 17,8% (p &lt; 0,001). Điểm cắt của chỉ số xung động mạch não giữa = 1,18; AUC = 0,769 (95% CI: 0,681 - 0,842, p &lt; 0,001); có giá trị tiên lượng kết cục chu sinh bất lợi với độ nhạy 76%, độ đặc hiệu 72,2%. Điểm cắt của tỷ não - rốn = 1,43; AUC = 0,733 (0,642 - 0,811) có giá trị tiên lượng kết cục chu sinh bất lợi với độ nhạy 80%, độ đặc hiệu 63,3%. Bất thường chỉ số xung động mạch não giữa và tỷ não - rốn làm tăng nguy cơ mổ lấy thai do thai suy lần lượt gấp 7,67 lần (95% CI: 1,55 - 38,01; p&lt;0,05) và 5,33 lần (95% CI: 1,08 - 26,33; p &lt; 0,05).</p> <p><strong>Kết luận: </strong>Siêu âm Doppler động mạch não giữa, động mạch rốn, sinh trắc học thai quá ngày sinh dự đoán có giá trị trong dự báo kết cục chu sinh bất lợi, qua đó giúp các nhà sản khoa tiên lượng và có thái độ xử trí phù hợp ở các thai kỳ quá ngày sinh dự đoán.</p> Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Thị Ngọc Bích, Trương Thị Linh Giang, Nguyễn Xuân Huy, Cao Ngọc Thành Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1785 Thu, 24 Apr 2025 02:55:40 +0000 Nuôi dưỡng qua đường tiêu hoá ở trẻ sơ sinh non tháng https://vjog.vn/journal/article/view/1786 <p><strong>Mục tiêu:</strong> Đánh giá có hệ thống về các hướng dẫn cũng như các nghiên cứu, phân tích gộp mới nhất về nuôi dưỡng đường tiêu hoá cho trẻ sinh non.</p> <p><strong>Phương pháp:</strong> Cơ sở dữ liệu MEDLINE và Thư viện Cochrane đã được sử dụng để thực hiện tìm kiếm những tài liệu đăng bằng tiếng Anh cho đến tháng 8 năm 2024. Các tác giả lựa chọn độc lập và đánh giá mức độ liên quan của từng bài báo để đưa vào nghiên cứu đảm bảo trả lời những câu hỏi nghiên cứu liên quan nuôi dưỡng tiêu hoá trẻ non tháng.</p> <p><strong>Kết quả</strong>: Sữa mẹ vẫn là lựa chọn đầu tiên trong nuôi dưỡng trẻ non tháng. Nuôi dưỡng đường tiêu hoá cần bắt đầu sớm nhất có thể và không nhất thiết phải tăng sữa chậm. Nuôi dưỡng tối thiểu không làm giảm nguy cơ viêm ruột hoại tử hay tử vong. Khuyến khích tập bú sớm ở trẻ non tháng, nuôi sữa qua ống thông dạ dày làm mất một số chất dinh dưỡng.</p> <p><strong>Kết luận: </strong>Dựa vào cơ sở dữ liệu hiện có, sau khi đánh giá nhóm nghiên cứu đã đưa ra những khuyến nghị về nuôi dưỡng đường tiêu hoá ở trẻ non tháng cũng như các hướng nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực này.</p> Nguyễn Phúc Thu Trang, Hoàng Mai Linh, Nguyễn Thị Thảo Trinh, Nguyễn Nồm Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1786 Thu, 24 Apr 2025 03:02:37 +0000 Khoảng tham chiếu của chỉ số xung động mạch tử cung ở ba tháng cuối thai kỳ tại Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh https://vjog.vn/journal/article/view/1803 <p><strong>Mục tiêu:</strong> Xây dựng khoảng tham chiếu của chỉ số xung động mạch tử cung (UtA-PI) trong ba tháng cuối thai kỳ ở phụ nữ mang đơn thai đến khám và kết thúc thai kỳ tại Bệnh viện Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh.</p> <p><strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: </strong>Đây là một nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu bao gồm 1088 thai phụ đơn thai từ 28 đến 40 tuần tuổi được đo UtA-PI ở ba tháng cuối thai kỳ theo hướng dẫn của ISOUG. Dữ liệu được thu thập từ bệnh án điện tử và xử lý bằng phần mềm Rstudio 4.4.1. Các đường bách phân vị của UtA-PI được xây dựng dựa trên hướng dẫn của INTERGROWTH-21 và mô hình toán học đề xuất bởi Royston và cộng sự.</p> <p><strong>Kết quả:</strong> Chỉ số UtA-PI giảm dần theo tuổi thai với độ dốc tương đối ổn định trong ba tháng cuối. Khoảng tham chiếu của UtA-PI từ tuần 28 đến 40 được xác định. Khoảng tham chiếu được xây dựng trong nghiên cứu có sự tương đồng với các nghiên cứu khác gợi ý chỉ số UtA-PI không có sự khác biệt giữa các quốc gia hay các dân tộc khác nhau.</p> <p><strong>Kết luận:</strong> Chỉ số UtA-PI giảm dần theo tuổi thai với độ dốc tương đối ổn định trong ba tháng cuối. Khoang tham chiếu cung cấp cơ sở cho việc phân loại bình thường hay bất thường để theo dõi và đánh giá sức khỏe thai nhi trong giai đoạn này. </p> Trịnh Trần Xuân Vinh, Nguyễn Đức Minh Quân, Huỳnh Thị Kim Hồng, Trần Nhật Thắng Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1803 Thu, 24 Apr 2025 03:47:46 +0000 Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị u lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng bằng phẫu thuật tại Bệnh viện Phụ Sản-Nhi Đà Nẵng https://vjog.vn/journal/article/view/1783 <p><strong>Mục tiêu: </strong>Khảo sát đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị u lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng bằng phẫu thuật tại Bệnh viện Phụ Sản - Nhi Đà Nẵng.</p> <p><strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: </strong>Mô tả cắt ngang gồm 32 trường hợp u lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng được phẫu thuật tại Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng từ&nbsp; tháng 11/2023 đến tháng 4/2024.</p> <p><strong>Kết quả: </strong>Tuổi trung bình là 36,7 ± 7,8 tuổi. Thống kinh là triệu chứng chiếm tỷ lệ cao nhất: 65,6%. Triệu chứng thực thể hay gặp nhất khi khám lâm sàng là sờ thấy khối u phần phụ chiếm 81,2%, tiếp đến là tử cung dính chiếm 78,1%. U LNMTC ở 2 bên chiếm tỷ lệ cao nhất: 46,9%. Đường kính u LNMTC trung bình là: 70,1 ± 26,4 mm. Dấu hiệu hay gặp nhất trên siêu âm là hồi âm dạng gương mờ chiếm 90,6%. Phẫu thuật bảo tồn gồm bóc u và bóc u, gỡ dính chiếm tỷ lệ 81,2%. Tỷ lệ LNMTC tại buồng trứng giai đoạn II, III, IV lần lượt là 6,3%, 40,6% và 53,1%. Tỷ lệ biến chứng trong và sau mổ là 3,1%.</p> <p><strong>Kết luận:</strong> Đặc điểm lâm sàng thường gặp của u LNMTC ở buồng trứng là thống kinh và khám phát hiện khối u phần phụ. Dấu hiệu “gương mờ” là hình ảnh phổ biến trên siêu âm. Kết quả phẫu thuật cho thấy LNMTC giai đoạn IV theo phân loại của Hiệp hội Sinh sản Hoa Kỳ chiếm lệ cao nhất. Đa số các trường hợp được gỡ dính bóc u.</p> Phạm Chí Kông, Đào Thị Thanh Thảo Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1783 Thu, 24 Apr 2025 09:22:44 +0000 Kết quả phẫu thuật nội soi điều trị khối u buồng trứng lành tính tại trung tâm y tế huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang https://vjog.vn/journal/article/view/1741 <p><strong>Mục tiêu:</strong> Nhận xét kết quả phẫu thuật nội soi khối u buồng trứng thực thể lành tính tại Trung tâm Y tế huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang từ năm 2022 - 2023.</p> <p><strong>Phương pháp nghiên cứu:</strong> Phương pháp mô tả cắt ngang hồi cứu tất cả các hồ sơ bệnh nhân được chẩn đoán là u buồng trứng, đã phẫu thuật nội soi và có kết quả giải phẫu bệnh học là u thực thể lành tính tại Trung tâm Y tế huyện Tân Yên từ 01/01/2022 đến 31/12/2023.</p> <p><strong>Kết quả:</strong> Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu: 40,4 ± 14,6 tuổi; cao tuổi nhất là 85 tuổi, trẻ tuổi nhất là 15 tuổi. Phẫu thuật theo kế hoạch chiếm 88,4%. Có 97,7% sử dụng phương pháp vô cảm là gây tê tuỷ sống. Phương pháp bóc u được sử dụng nhiều nhất chiếm tỷ lệ 51,2%. Các trường hợp cắt u và cắt u + cắt phần phụ ở nhóm 2 con trở lên cao hơn nhóm ≤1 con. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p &lt; 0,05. Tỷ lệ bệnh hân bóc u, cắt u, cắt u và cắt phần phụ với các nhóm kích thước khối u không có sự khác biệt với p &gt; 0,05. Kết quả GPB: tỷ lệ u nang bì cao nhất với 38,4% các trường hợp bệnh; tiếp theo là u nang nhầy với 33,7%. Thời gian nằm viện sau mổ trung bình 5,9 ngày ± 0,8 ngày. 93,0% được đánh giá kết quả điều trị quả tốt.</p> <p><strong>Kết luận: </strong>phẫu thuật nội soi điều trị khối u buồng trứng lành tính tại Trung tâm Y tế huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang đạt hiệu quả cao với 93,0% bệnh nhân có kết quả điều trị tốt.</p> Nguyễn Thị Hồng, Nguyễn Đức Huân, Hoàng Quốc Huy Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1741 Fri, 25 Apr 2025 07:38:13 +0000 Nghiên cứu tình trạng viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mãn kinh đến khám tại Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng https://vjog.vn/journal/article/view/1789 <p><strong>Mục tiêu: </strong>Xác định tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mãn kinh đến khám tại Bệnh viện Phụ sản - Nhi Đà Nẵng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan với viêm nhiễm đường sinh dục dưới ở đối tượng nghiên cứu trên.</p> <p><strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: </strong>Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 199 phụ nữ mãn kinh đến khám tại Khoa Khám bệnh- Bệnh viện Phụ Sản Nhi Đà Nẵng trong thời gian từ tháng 12 năm 2020 đến hết tháng 4 năm 2021.</p> <p><strong>Kết quả: </strong>Tỷ lệ viêm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mãn kinh là 24,1% trong đó viêm do vi khuẩn là 10,1%; viêm do nấm Candida là 8,0%; viêm do Trichomonas là 6,0%. Có mối liên quan giữa nhóm tuổi với viêm nhiễm đường sinh dục dưới: viêm đường sinh dục dưới do vi khuẩn và Trichomonas tăng dần theo nhóm tuổi mãn kinh trong khi đó viêm đường sinh dục dưới do Candida giảm dần theo nhóm tuổi mãn kinh (p &lt; 0,05). Có mối liên quan giữa pH âm đạo với viêm đường sinh dục dưới: viêm âm đạo do vi khuẩn và Trichomonas giảm dần theo độ tăng của pH âm đạo trong khi đó viêm âm đạo do Candida tăng dần theo độ tăng của pH âm đạo (p &lt; 0,05).</p> <p><strong>Kết luận: </strong>Tỷ lệ viêm đường sinh dục dưới ở phụ nữ mãn kinh chiếm tỷ lệ tương đối cao, cần có nhu cầu can thiệp để cải thiện chất lượng sống cho phụ nữ ở dộ tuổi này.</p> Nguyễn Đình Phương Thảo, Phan Thị Khánh Trinh Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1789 Fri, 25 Apr 2025 00:00:00 +0000 Yếu tố dự báo sự hồi phục nồng độ AMH sau mổ nội soi bóc nang lạc nội mạc tử cung tại buồng trứng https://vjog.vn/journal/article/view/1795 <p><strong>Mục tiêu: </strong>Khảo sát các yếu tố dự báo hồi phục nồng độ AMH trong vòng 6 tháng sau mổ nội soi bóc nang lạc nội mạc tử cung (LNMTC).</p> <p><strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: </strong>Nghiên cứu theo dõi dọc trên 104 bệnh nhân sau mổ nội soi bóc nang LNMTC (77 bệnh nhân có nang ở 1 bên buồng trứng và 27 bệnh nhân có nang ở 2 bên buồng trứng). Nồng độ AMH trước mổ, sau mổ 1 tháng và sau mổ 6 tháng được ghi lại. Dự trữ buồng trứng được gọi là hồi phục khi nồng độ AMH sau mổ 6 tháng cao hơn nồng độ AMH ở thời điểm 1 tháng sau mổ. Các yếu tố (đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng,…) được phân tích để xác định mối liên quan với hồi phục nồng độ AMH.</p> <p><strong>Kết quả:</strong> Sau mổ 6 tháng, có 52 bệnh nhân (50%) có nồng độ AMH cao hơn so với nồng độ AMH sau mổ 1 tháng (nhóm tăng AMH) và 52 bệnh nhân (50%) có nồng độ AMH thấp hơn (nhóm giảm AMH). Nhiều yếu tố gồm tuổi, số bên buồng trứng có nang LNMTC, kích thước nang LNMTC, điểm rASRM, thời gian phẫu thuật, nồng độ AMH trước mổ và mức độ giảm AMH sau mổ 1 tháng được phân tích. Trong đó, chỉ xác định được 1 mối liên quan có ý nghĩa với sự hồi phục AMH là sự thay đổi nồng độ AMH sau mổ 1 tháng giữa 2 nhóm. Điểm cắt mức độ giảm AMH sau mổ 1 tháng ≥ 52,77% với nang buồng trứng ở 1 bên và điểm cắt mức độ giảm AMH sau mổ 1 tháng ≥ 84,54% với nang buồng trứng ở 2 bên có khả năng dự báo sự hồi phục của AMH sau mổ 6 tháng tốt nhất.</p> <p><strong>Kết luận: </strong>Nồng độ AMH giảm sau mổ bóc nang LNMTC có thể hồi phục sau 6 tháng, trong đó mức độ giảm AMH sau mổ 1 tháng có khả năng dự báo sự hồi phục nồng độ AMH.</p> Nguyễn Thị Thu Hà, Nguyễn Đức Hinh, Nguyễn Duy Ánh Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1795 Fri, 25 Apr 2025 08:11:02 +0000 Đánh giá hiệu quả quản lý và xử trí tổn thương cổ tử cung ở phụ nữ có kết quả sàng lọc bất thường https://vjog.vn/journal/article/view/1780 <p><strong>Mục tiêu: </strong>Mô tả đặc điểm lâm sàng và thái độ xử trí đối với các bệnh nhân có kết quả sàng lọc cổ tử cung bất thường tại Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh.</p> <p><strong>Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: </strong>Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 440 phụ nữ được sàng lọc bằng xét nghiệm HPV và ThinPrep, từ tháng 01/2023 đến tháng 06/2024. Các bệnh nhân có kết quả bất thường được soi cổ tử cung và chẩn đoán mô bệnh học khi cần.</p> <p><strong>Kết quả: </strong>Độ tuổi phụ nữ trung bình là 34,5 ± 7,3 tuổi, cao nhất là 54,1% ở nhóm 30-39 tuổi, 63,6% có chu kỳ kinh nguyệt đều và 24,8% quan hệ tình dục trước 18 tuổi. Lâm sàng 15,5% viêm lộ tuyến, 12% nang naboth và 10,5% bị viêm CTC. Xét nghiệm, 33 trường hợp dương tính với HPV nguy cơ cao, 62 trường hợp bất thường (ASC-US, AGC, LSIL, HSIL) trên ThinPrep. Trong 121 phụ nữ soi CTC, 57,9% bình thường, 37,2% viêm lộ tuyến, 4,1% vết trắng, 2,5% lát đá, 1,7 chấm đáy và 0,8% mạch máu không điển hình. Thái độ xử trí, trong 116 trường hợp điều trị, 41,1% được điều trị nội khoa, 44,8% đốt điện, 10,3% cắt Leep, 2,6% khoét chóp và 0,9% cắt tử cung hoàn toàn. Đốt điện và điều trị nội khoa là phương pháp phổ biến nhất, ưu tiên cho tổn thương nhẹ, trong khi cắt Leep và khoét chóp áp dụng cho tổn thương nghiêm trọng hơn, đặc biệt ở phụ nữ trên 35 tuổi.</p> <p><strong>Kết luận:</strong> Sàng lọc ung thư CTC bằng HPV và ThinPrep, kết hợp xử trí thích hợp, giúp nâng cao hiệu quả phát hiện và điều trị tổn thương tiền ung thư cổ tử cung.</p> Nguyễn Hoàng Tùng, Nguyễn Đức Hinh, Nguyễn Dư Dậu, Nguyễn Thị Hồng Nhung, Nguyễn Hữu Công, Phạm Thị Hương Giang, Trịnh Thị Quỳnh, Lưu Thị Hồng Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1780 Fri, 25 Apr 2025 10:10:15 +0000 Thai bám sẹo mổ lấy thai, dưỡng thai thành công đến 35 tuần: báo cáo trường hợp và tổng quan y văn https://vjog.vn/journal/article/view/1776 <p>Thai bám sẹo mổ lấy thai (TBSMLT) là một dạng thai ngoài tử cung hiếm gặp, khi túi thai bám vào vùng sẹo mổ của lần mổ lấy thai trước. Tỷ lệ mổ lấy thai ngày càng tăng làm gia tăng các trường hợp TBSMLT, có thể gây ra bệnh tật và tử vong nghiêm trọng cho sản phụ và thai nhi. Khuyến cáo thông thường nhất đối với TBSMLT là chấm dứt thai kỳ trong quý I thai kỳ, ngay khi phát hiện TBSMLT. Có một số ít báo cáo về trường hợp TBSMLT sinh con thành công. Chúng tôi trình bày một trường hợp TBSMLT được dưỡng thai thành công, mổ lấy thai chương trình ở tuần thứ 35 của thai kỳ, nhau cài răng lược percreta, phẫu thuật bảo tồn tử cung thành công. Báo cáo này cho thấy có thể dưỡng thai thành công ở một số trường hợp TBSMLT, nhưng cần cá thể hóa điều trị dựa trên các đặc điểm lâm sàng, siêu âm cũng như cần có thêm nhiều nghiên cứu để có thể đưa ra các khuyến cáo tối ưu cho những trường hợp TBSMLT mong muốn dưỡng thai.</p> Hồ Quang Nhật, Trần Ngọc Hải, Vương Đình Bảo Anh, Nguyễn Đình Vinh, Nguyễn Phúc Nhơn, Nguyễn Vũ Quốc Huy Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Phụ sản https://creativecommons.org/licenses/by-nc-nd/4.0 https://vjog.vn/journal/article/view/1776 Fri, 25 Apr 2025 10:25:29 +0000