Tóm tắt
Đặt vấn đề: Siêu âm bìu có thể cung cấp các thông tin trong đánh giá tinh hoàn, mào tinh và các bất thường về hình thái cơ quan sinh dục nam, đặc biệt ở các bệnh nhân vô sinh. Thực hành lâm sàng không chỉ định siêu âm bìu một cách thường quy. Trong trường hợp vô tinh, siêu âm bìu có thể có giá trị tiên lượng có tinh trùng trong phẫu thuật trích tinh trùng. Nghiên cứu này nhằm khảo sát đặc điểm siêu âm bìu ở các bệnh nhân vô tinh và tìm hiểu mối liên quan giữa các thông số siêu âm bìu với kết quả phẫu thuật trích tinh trùng.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang các trường hợp vô sinh nam đến khám tại Trung tâm Nội tiết sinh sản và vô sinh, Bệnh viện trường Đại học Y Dược Huế từ tháng 6/2016 đến tháng 5/2018 có kết quả tinh dịch đồ kết luận vô tinh. Tất cả bệnh nhân đều được siêu âm bìu và xét nghiệm nội tiết sinh sản, được chỉ định phẫu thuật trích tinh trùng từ tinh hoàn, mào tinh bằng các kỹ thuật TESA, PESA và TESE. Kết quả được phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0.
Kết quả: Tổng số 127 trường hợp vô sinh nam vô tinh được đưa vào mẫu nghiên cứu. Đặc điểm giữa hai nhóm có tinh trùng và không có tinh trùng sau phẫu thuật có sự khác biệt về độ tuổi, phân loại vô sinh. Thể tích tinh hoàn trung bình 18.2±16.6ml (trái: 9.0±8.3ml; phải: 9.2±8.5ml), Giãn tĩnh mạch thừng tinh 11.8%; kết quả phẫu thuật trích tinh trùng: có tinh trùng 50.4%, không có tinh trùng 49.6%. So sánh thể tích tinh hoàn giữa nhóm phẫu thuật có (26.8± 18.7ml) và không tìm thấy tinh trùng (9.5 ± 7.1ml), khác biệt có ý nghĩa với OR=17.3 (95%CI: 12.3-22.3; p<0.05); tại điểm cắt tổng thể tích tinh hoàn 13.75ml có giá trị dự báo có tinh trùng là 76.6%.
Kết luận: Đánh giá thể tích tinh hoàn trên siêu âm hữu ích cho việc tiên lượng kết quả phẫu thuật trích tinh trùng ở các bệnh nhân vô tinh.
Từ khóa
Tạp chí sẽ lưu giữ bản quyền phân phối, giao dịch đối với tất cả các bản thảo, bản toàn văn của bài báo đăng trên hệ thống. Mọi hình thức chia sẽ, trao đổi, giao dịch các sản phẩm thuộc hệ thống xuất bản vjog.vn mà không được sự đồng ý của chúng tôi sẽ là vi phạm bản quyền
Download
Cùng tác giả
- Bùi Thị Như Quỳnh, Võ Văn Đức, Lê Minh Tâm, Nghiên cứu kết quả điều trị thai ngừng tiến triển trong ba tháng đầu bằng Misoprostol , Tạp chí Phụ sản: Tập 15 Số 1 (2017)
- Lê Minh Tâm, Lê Thị Hồng Vũ, Nghiên cứu giá trị của siêu âm bơm dịch trong chẩn đoán bất thường tử cung - vòi tử cung ở các trường hợp vô sinh , Tạp chí Phụ sản: Tập 10 Số 3 (2012)
- Lê Minh Tâm, Võ Văn Khoa, Phan Thị Minh Thư, Cập nhập xử trí u xơ cơ tử cung dựa trên bằng chứng , Tạp chí Phụ sản: Tập 17 Số 1 (2019)
- Cao Ngọc Thành, Nguyễn Vũ Quốc Huy, Lê Minh Tâm, Trần Mạnh Linh, Vai trò Carbetocin trong điều trị dự phòng băng huyết sau sinh , Tạp chí Phụ sản: Tập 10 Số 3 (2012)
- Hồ Thị Thanh Tâm, Lê Minh Tâm, Trương Quang Vinh, Áp lực tâm lý ở cặp vợ chồng vô sinh và mối liên quan với rối loạn tình dục , Tạp chí Phụ sản: Tập 16 Số 2 (2018)
- Nguyễn Trần Thảo Nguyên, Lê Minh Tâm, Võ Văn Đức, Cao Ngọc Thành, Đo chiều dài cổ tử cung qua siêu âm trong dự báo dọa sinh non , Tạp chí Phụ sản: Tập 15 Số 1 (2017)
- Trần Thị Như Quỳnh, Lê Minh Tâm, Cao Ngọc Thành, Nghiên cứu giá trị beta-hCG trong tiên lượng kết cục thai kỳ sau thụ tinh ống nghiệm , Tạp chí Phụ sản: Tập 16 Số 2 (2018)
- Nguyễn Đắc Nguyên, Lê Minh Tâm, Cao Ngọc Thành, Liệu GnRH agonist có thể thay thế hCG để gây phóng noãntrong chu kỳ thụ tinh nhân tạo? , Tạp chí Phụ sản: Tập 15 Số 3 (2017)
- Nguyễn Trần Thảo Nguyên, Nguyễn Thị Lê Na, Lê Minh Tâm, Cao Ngọc Thành, Vai trò kẹp rốn muộn sau sinh dựa trên y học bằng chứng , Tạp chí Phụ sản: Tập 15 Số 4 (2018)
- Phùng Ngọc Hân, Lê Minh Tâm, Trương Quang Vinh, Chỉ định mổ lấy thai con so tại Bệnh viện Đại học Y Dược Huế , Tạp chí Phụ sản: Tập 15 Số 1 (2017)