Tóm tắt
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả của kỹ thuật nuôi trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) trên bệnh nhân có hoặc không có hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS).
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là nghiên cứu đoàn hệ, hồi cứu trên 314 bệnh nhân có PCOS và 32 bệnh nhân không PCOS nhưng có tiền căn quá kích buồng trứng. Bệnh nhân được thực hiện IVM tại IVFMD, bệnh viện Mỹ Đức từ tháng 4/2014 đến tháng 1/2016. Bệnh nhân được tiêm FSH (100IU/ngày trong 3 ngày) và hCG (10000 IU). Chọc hút trứng được tiến hành 36-38 tiếng sau khi tiêm hCG. Noãn sau khi trưởng thành in vitro được thụ tinh bằng kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn. Chuyển phôi tiến hành vào ngày 3 sau chọc hút. Các yếu tố đánh giá kết quả bao gồm số noãn chọc hút, số noãn trưởng thành, số noãn thụ tinh, số phôi ngày 2, số phôi loại I, tỉ lệ thai lâm sàng, tỉ lệ thai diễn tiến và tỉ lệ làm tổ.
Kết quả: Không có khác biệt về đặc điểm bệnh nhân giữa hai nhóm (độ tuổi, BMI, nồng độ AMH, độ dày nội mạc tử cung và loại vô sinh). Số lượng noãn chọc hút cao hơn ở nhóm bệnh PCOS nhưng không có khác biệt về số lượng noãn trưởng thành, số lượng noãn thụ tinh, số phôi ngày 2 và số phôi loại I giữa hai nhóm (các chỉ số lần lượt là 13,0 so với 11,0, p=0,005; 8,0 so với 6,0, p=0,103; 5,0 so với 5,0, p=0,473; 5,0 so với 4,0, p=0,548; 1,0 so với 1,0, p=0,462). Không có khác biệt giữa hai nhóm về số phôi chuyển trung bình (3,0 so với 3,0), tỉ lệ thai lâm sàng (48,7% so với 46,9%), tỉ lệ thai diễn tiến (36,0% so với 31,2%) cũng như tỉ lệ làm tổ (23,8% so với 25,9%).
Kết luận: Ở bệnh nhân không PCOS nhưng có tiền căn quá kích buồng trứng, IVM có thể là một giải pháp an toàn và hiệu quả.
Tạp chí sẽ lưu giữ bản quyền phân phối, giao dịch đối với tất cả các bản thảo, bản toàn văn của bài báo đăng trên hệ thống. Mọi hình thức chia sẽ, trao đổi, giao dịch các sản phẩm thuộc hệ thống xuất bản vjog.vn mà không được sự đồng ý của chúng tôi sẽ là vi phạm bản quyền
Download
Cùng tác giả
- Mai Đức Tiến, Nguyễn Minh Nhật, Bùi Thị Phương Loan, Hồ Cao Cường, Đặng Quang Vinh, Hiệu quả khâu vòng cổ tử cung trên các thai phụ song thai có cổ tử cung ngắn , Tạp chí Phụ sản: Tập 15 Số 1 (2017)
- Lê Long Hồ, Phạm Dương Toàn, Vương Thị Ngọc Lan, Kết quả thụ tinh ống nghệm của nhóm bệnh nhân “tiên lượng thấp” theo phân loại POSEIDON , Tạp chí Phụ sản: Tập 15 Số 4 (2018)
- Hà Thị Diễm Uyên, Nguyễn Ngọc Quỳnh, Phạm Dương Toàn, Huỳnh Gia Bảo, Hồ Mạnh Tường, So sánh thai diễn tiến cộng dồn giữa chuyển phôi ngày 3 so với chuyển phôi ngày 5 ở bệnh nhân thụ tinh trong ống nghiệm , Tạp chí Phụ sản: Tập 15 Số 1 (2017)
- Lê Long Hồ, Phạm Dương Toàn, Vương Thị Ngọc Lan, Kết quả thụ tinh ống nghệm của nhóm bệnh nhân “tiên lượng thấp” theo phân loại POSEIDON , Tạp chí Phụ sản: Tập 17 Số 1 (2019)
- Nguyễn Khánh Linh, Đặng Quang Vinh, Phạm Dương Toàn, Hê Thanh Nhã Yến, Vũ Nhật Khang, Phan Thị Ngọc Minh, Lê Quang Thanh, Lê Hồng Cẩm, Vương Thị Ngọc Lan, Ben W Mol, Vòng nâng cổ tử cung so với progesterone đặt âm đạo trong phòng ngừa sinh non ở thai phụ mang song thai có chiều dài cổ tử cung < 38 mm: một thử nghiệm ngẫu nhiên có nhóm chứng , Tạp chí Phụ sản: Tập 16 Số 1 (2018)
- Hồ Ngọc Anh Vũ, Vương Thị Ngọc Lan, Phạm Dương Toàn, Hồ Mạnh Tường, Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng so sánh hiệu quả phác đồ kích thích buồng trứng sử dụng corifollitropin α và menotropin với phác đồ follitropin β đơn thuần ở bệnh nhân đáp ứng buồng trứng kém , Tạp chí Phụ sản: Tập 14 Số 3 (2016)